Hai hôm sau đoàn người của Vương Bá, Chu Tái Kênh tới Thành-đô. Ngô Hán
cùng Vương Bá làm lễ trao quyền. Ngay tối hôm đó, Vương mời bọn Chu
Tái-Kênh với các nghĩa đệ hội họp. Chu Tái-Kênh đề nghị:
– Các nghĩa đệ theo Thứ-sử, thì một là vì muốn giúp nghĩa huynh. Hai, là muốn có chút danh với đời. Bây giờ đương lúc đắc chí. Thứ-sử hãy giao
binh quyền cho các nghĩa đệ trước.
Năm nghĩa đệ của Vương Bá nhìn Chu Tái-Kênh với con mắt biết ơn. Vương
Bá gật đầu. Trần Năng từng cầm quân đánh Thục. Bà hiểu hết tình hình. Bà nói:
– Một giải phía Bắc gồm Dương-bình-quan, Kiếm-các, Giang-du, Cẩm-dương
nên trao cho Ngô tướng quân. Phía đông từ Ba-trung đến Phong-đô, Bạch-đế nên trao cho Vũ tướng quân. Phía tây vùng Kiên-định, nên trao cho Lê
tướng quân. Phía nam từ Long-xương trở xuống giao xin trao cho Hà tướng
quân. Còn một giải Hán-nguyên thì nhất định phải trao cho Phạm tướng
quân.
Vương Bá gật đầu:
– Lời Y-tiên thực hợp ý tôi. Chỉ hiềm một điều, các nghĩa đệ đi hết. Trong tay tôi không còn cao thủ giữ Thành-đô.
Ngô Bình cười:
– Đại ca quên mất ba vị đây sao? Bàn về võ công, bọn đệ không thể nào so với y tiên. Chứ đừng nói hai vị Chu, Đinh phu nhân.
Vương Bá nghĩ ra:
– Ta quên mất.
Vương Bá dành cho bọn Chu Tái-Kênh một ngôi nhà lớn, trước đây là cung
điện Thái-hậu đất Thục. Ba người có đủ kẻ hầu, quân lính sai phái. Các
tướng sĩ Hán ở Thành-đô thấy ba người là khâm sai của Mã thái-hậu, võ
công cao cường, họ đều kính nể.
Chiều hôm ấy, Vương Bá thân tới thăm ba người. Y nói với Chu Tái-Kênh:
– Ngô Hán sai cầm binh phù mời tôi tới Hán-nguyên hội, bàn truyện đánh
Vương Nguyên. Vương Nguyên cùng hai con Vương Lộc, Vương Thọ còn giữ
được bảy thành phía Nam. Tôi muốn mời ba vị cùng đi.
Trần Năng đáp:
– Như thế cũng được. Có lẽ chúng tôi phải giả trai, mặc quần áo như ba
võ tướng. Mọi người đều phải ăn mấy trái ổi xanh, để tiếng khàn khàn như đàn ông. Ngô Hán dễ gì nhìn ra.
Hôm sau Vương Bá dẫn theo đoàn tùy tùng, cùng bọn Chu Tái-Kênh đến
Hán-nguyên. Ngô Hán ra trước dinh đón vào. Liếc mắt nhìn qua, Trần Năng
thấy khá nhiều tướng Hán, bà quen mặt trong thời gian theo đạo
Kinh-châu. Mấy tháng ở Lạc-dương, bà nghe Chu Tường-Qui kể rằng: Hồi anh hùng Lĩnh-Nam phản Hán, trợ Thục. Một số đại tướng Hán bị Trưng Nhị,
Phương-Dung bức bách phải đầu hàng Thục, mà lòng họ không muốn. Hoài-nam vương tâu với Quang-Vũ không nên giết hại vợ con họ như luật định. Trái lại âm thầm cấp phát lương thảo như thường lệ. Một mặt sai mật sứ đến
an ủi họ rằng triều đình lúc nào cũng hậu đãi họ. Thiên tử biết họ bị
bức bách phải hàng Thục. Vậy họ cứ ẩn nhẫn, khéo léo nắm giữ binh quyền. Đợi đại binh đánh vào Thục, sẽ làm nội ứng. Hồi Công-tôn Thi đầu hàng
Hán, mở cửa cho Ngô Hán đem quân vào Thục. Các hàng tướng hưởng ứng, đem thành trì dâng Hán. Hóa cho nên Vương Nguyên có tài kinh thiên động địa cũng bị bại.
Bà liếc mắt nhìn, thấy đủ mặt Vương Hữu-Bằng, Chu Á-Dũng, Lý Thái-Hiên, Lưu Thương, Cáp Diên. Bà lo lắng trong lòng:
– Võ công bọn này không có gì đáng sợ. Song tài dùng binh của chúng thực đáng nể. Chúng đã chinh chiến trên hai mươi năm. Bất cứ một tên nào,
cũng có tài đại tướng cầm quân. Trong khi phía Lĩnh-Nam, các tướng tuy
có võ công cao thực, mà tài dùng binh khó bằng bọn chúng. Phùng Vĩnh-Hoa tuy có tài dùng binh, mưu thần chước thánh hơn Ngô Hán. Mưu kế là một
truyện, tướng có đủ tài thi hành mưu kế đó hay không mới là điều quan
trọng.
Bà nhìn sang phía các hàng tướng Thục, chỉ thấy Công-tôn Thi ngồi với
một số người rất lạ. Bà không ngạc nhiên, vì Sa-Giang đã cho biết: Khi
Công-tôn Thi đầu Hán. Các tướng Thục chia làm hai. Một phần theo Vương
Nguyên, chống trả đến cùng. Đa số đều tử trận. Một số theo Công-tôn Thi
đầu Hán, được Quang-Vũ phong chức tước, cử đi trấn nhậm các vùng khác.
Một số ít trở về Thiên-sơn ẩn dật.
Trước trướng bày hương án, khói lên nghi ngút. Một văn quan, áo dài, mũ rộng đứng trước hương án, tay cầm cuộn giấy. Y hô lớn:
– Có thánh chỉ.
Tất cả tướng sĩ hiện diện đều quì xuống. Viên văn quan mở trục giấy,
tuyên đọc chiếu chỉ Quang-Vũ. Trong chiếu chỉ, Quang-Vũ phong cho: Đặng
Vũ làm Cao-mật hầu, lĩnh chức thái phó. Ngô Hán làm Quảng-bình hầu lĩnh
ấn Đại tư-mã thay Đặng Vũ. Chiếu chỉ truyền Ngô Hán thống lĩnh binh mã
Ích-châu, Hán-trung, bình định phần đất phía nam do Vương Nguyên chiếm
cứ. Sau đó đánh chiếm Lĩnh-Nam.
Ngô Hán hướng về Lạc-dương lạy tạ. Y lĩnh ấn kiếm đặt lên án thư, nói:
– Bản soái mời các tướng tới đây bàn việc bình định đất Thục, và đánh
xuống Lĩnh-Nam. Cùng xuất phát với chúng ta, còn có đạo binh từ
Kinh-châu đánh vào Trường-sa, Quế-lâm do Phục-ba tướng quân Mã Viện chỉ
huy. Mặt khác, đạo binh Mân, Việt do Phiêu-kị Đại tướng-quân Lưu Long và Lâu-thuyền tướng-quân Đoàn Chí đánh xuống Nam-hải.
Ngưng lại một lúc, y nhìn Công-tôn Thi nói:
– Phía Nam Ích-châu còn tới bảy châu, quận, do Vương Nguyên cát cứ.
Vương Nguyên là người văn võ toàn tài, lại thêm đạo binh Lĩnh-Nam trợ
chiến. Cho nên suốt một năm qua, chúng ta không sao đánh được. Vậy các
vị có cao kiến gì, xin cùng bản soái bàn định.
Tham quan Vương Hữu-Bằng bàn:
– Vương Nguyên với hai con Lộc, Thọ tuy tài thực. Song binh tướng bất
quá hơn ba vạn. Lương thảo thiếu hụt. Bây giờ xin Vương Nguyên-soái xuất hai đạo kỳ binh, vượt Kim-sa-giang, đánh vào Tượng-quận. Tượng-quận tất cầu cứu với Đại tư-mã Lĩnh-Nam Đào Kỳ. Trong khi Đào Kỳ mải cứu
Trường-sa, Nam-hải, không còn quân viện Hàn Bạch. Hàn Bạch tất rút quân
về tự phòng. Bấy giờ, Nguyên-soái chỉ cần đánh một trận, bình xong
Ích-châu. Ích-châu bình, Tượng-quận rung động. Nguyên soái cất đại binh
tất chiếm được.
Chu Tái-Kênh nói nhỏ vào tai Trần Năng:
– Hỏng to rồi!
Đô-đốc Lý Thái-Hiên nói:
– Tôi cũng nghĩ như thế. Song Lĩnh-Nam nhân tài như sao trên trời. Cứ
như trước đây, Đặng Vũ, Mã Viện với ta đánh Thục không được. Lĩnh-Nam
vương đem một số bằng hữu về trợ chiến. Thục đại bại. Lại khi họ phản
Hán, chỉ hơn mười lăm ngày họ chiếm Ích-châu, Hán-trung, Kinh-châu,
Trường-an. Bây giờ chúng ta tiến quân trước, e Lĩnh-Nam dồn hết lực
lượng cứu Tượng-quận thì chúng ta nguy mất. Theo ý tôi, chúng ta hãy
đánh chiếm bảy châu, quận Ích-châu đã. Chờ cho hai đạo kia đánh Nam-hải, Quế-lâm, khiến Trưng Trắc dồn quân lên cứu hai mặt đó. Bấy giờ chúng ta hãy đánh Tượng-quận.
Chu Tái-Kênh thì thầm vào tai Vương Bá mấy câu. Vương Bá gật đầu đồng ý. Y đứng dậy chỉ vào Công-tôn Thi nói:
– Chiếu chỉ của thiên tử ban ra cho Nguyên-soái đánh Lĩnh-Nam. Còn tôi
trấn thủ Ích-châu. Vậy việc đánh bảy châu, quận Ích-châu, do Hán-trung
vương đây. Binh pháp Tôn Tử, thiên Dụng gián nói rằng:
Phàm hưng sư thập vạn, xuất chinh thiên lý. Bách tính chi phí.
Công gia chi dụng. Nhất phí thiên kim, nội ngoại kinh động.
Nghĩa rằng: Phàm khi hùng binh mười vạn. Xuất chinh xa nghìn dặm. Trăm
họ chịu chi phí. Công quĩ hao tổn. Trong ngoài kinh động... Thế mà chúng ta án binh chờ Kinh-châu, Thương-ngô, Uất-lâm. Nếu ba nơi kia cũng án
binh chờ ta, biết bao giờ mới thành công? Nay bảy châu, quận Ích-châu
trong tay Vương Nguyên như đèn trước gió, như hoa gặp bão. Quân của
chúng chưa tới ba vạn. Chỉ cần Công-tôn Vương-gia đây xuất binh đất Thục đánh cũng đủ. Còn Đại tư-mã cử đại binh đánh Tượng-quận. Ba mặt giáp
công. Tượng-quận bị chiếm. Bấy giờ Đại tư-mã chỉnh đốn binh mã đánh
Giao-chỉ bắt Trưng Trắc, lập công đầu. Đây là dịp may hiếm có, xin Đại
tư-mã đừng để Mã Viện, Lưu Long, Đoàn Chí ra binh trước. Vả binh
Tượng-quận khoảng năm vạn. Dốc cả binh các quận, huyện, được năm vạn
nữa. Trong khi binh mã của Đại tư-mã lên tới hai mươi vạn, thêm binh của Hán-trung vương mười vạn. Cái lẽ thắng bại đã định rồi vậy.
Ngô Hán từng chỉ huy Vương Bá. Y còn lạ gì Vương nữa. Y đang muốn dùng
kế của Lý Thái-Hiên. Bây giờ Vương lấy chiếu chỉ Quang-Vũ, lấy đạo lý
binh thư: Tiết kiệm chi phí, đẩy Ngô phải xuất thân đánh Lĩnh-Nam. Quân
Lĩnh-Nam, y không sợ. Điều y sợ chỉ vì Lĩnh-Nam nhân tài nhiều. Y mới
được phong Đại tư-mã, thống lĩnh trọng binh toàn quốc. Không lẽ y lại
chịu lui ? Y nghĩ rằng: Quân của y toàn quân thiện chiến. Trong khi
Lĩnh-Nam chỉ có năm vạn binh thiện chiến. Quá nửa người Hán. Còn lại
toàn binh mới mộ, tướng mới cầm quân. Y không sợ, quyết định:
– Trước đây Lĩnh-Nam vương đánh Thục bằng bốn mũi : Độ-khẩu, Kim-sơn,
Kinh-châu, Hán-trung. Nay ta đánh Lĩnh-Nam cũng bằng hai đạo kỳ binh.
Một đạo vượt Kim-sơn, đổ xuống Xích-thủy. Một đạo vượt Ô-giang. Hai đạo
này thình lình đổ ra, tất Đào Kỳ đem quân Quế-lâm lên nghinh chiến. Bấy
giờ ta cho quân vượt Kim-sa-giang đánh xuống Tượng-quận. Đào Kỳ sẽ bó
tay, không còn quân cứu viện. Tượng-quận chỉ có năm vạn binh. Ta đổ hai
mươi vạn binh xuống đánh, hẳn phải chiếm được.
Các tướng đều khâm phục. Ngô Hán nói với Công-tôn Thi:
– Việc đánh bảy châu quận Ích-châu, để Hán-trung vương. Ích-châu được
phong cho Vương-gia. Vương Nguyên là giặc trong nhà, để Vương-gia lo
liệu. Xin Vương-gia cho biết tôn ý.
Công-tôn Thi nghe lời Lê Đạo-Sinh, phản cha, hại anh, những tưởng được
kế nghiệp cha, làm vua Ích-châu, Hán-trung. Chỉ phải chịu khuất nhận sắc phong của Quang-Vũ. Không ngờ, Kinh-châu vào tay Vũ Hỷ. Hán-trung,
Thành-đô vào tay Lê Đạo-Sinh. Cuối cùng Lê Đạo-Sinh cũng phải trao thành trì cho Ngô Hán, về lĩnh chức Lĩnh-Nam công, trong khi Lĩnh-Nam nằm
trong tay hoàng đế Trưng Trắc. Vũ Hỷ được phong hầu, mà đất thụ phong
vẫn còn ở trong tay người Việt. Y phải trao Kinh-châu do Mã Viện trấn
giữ.
Từ hồi ấy đến giờ, Công-tôn Thi đem tướng sĩ thuộc quyền, đi trước, đánh người nhà. Ngô Hán đi sau tiếp ứng. Đánh đến đâu, Ngô lại cho người
tiếp nhận đến đó. Binh hao, tướng tổn là binh của y, mà vẫn chỉ được cái danh Hán-trung vương hão huyền. Bây giờ Ngô Hán lại đẩy y phải lâm
chiến, đánh nốt bảy châu quận trong tay Vương Nguyên. Y đã linh cảm
thấy, sau khi diệt Vương Nguyên, bản thân y khó toàn.
Y miễn cưỡng đứng lên nói:
– Xin Đại tư-mã cứ yên tâm. Quân mã của tôi trên mười vạn người. Chỉ cần Đại tư-mã đánh xuống Tượng-quận. Quân Lĩnh-Nam rút đi, chúng tôi chiếm
lại bảy châu quận như trở bàn tay.
Ngô Hán hài lòng tiếp:
– Đạo Ô-giang thế nào cũng gặp trọng binh của Đào Kỳ từ Quế-lâm cứu
viện. Vậy tham quân Vương Hữu-Bằng làm chủ tướng. Đô đốc Lý Thái-Hiên
làm phó tướng. Khi vượt Ô-giang đánh vào Quế-lâm mà thấy quân Đào Kỳ
tới, phải đóng đồn chắc chắn cự địch. Mục đích cầm chân đạo binh trừ bị
của Đào Kỳ. Nhược bằng Đào Kỳ không gửi quân tiếp viện, thì đánh thẳng
vào bắc Tượng-quận, hợp với đạo binh của Chu Á-Dũng. Tham quân lĩnh năm
vạn bộ binh, ba vạn kị binh, cùng với năm vạn thủy binh.
Ngô Hán trao binh phù cho Chu Á-Dũng:
– Tướng quân mang ba vạn bộ binh, lên núi Kim-sơn, xuất phát từ Mỹ-cơ
vượt Trường-giang vào Kim-sa-giang đánh Chiêu-thông. Từ Chiêu-thông đánh thẳng về Bồ-lăng, uy hiếp Khúc-tĩnh.
Ngô Hán lấy binh phù trao cho Lưu Thương:
– Đạo binh thứ nhất do Hoành-dã đại tướng-quân Sơn-tang hầu vượt
Kim-sa-giang đánh thẳng về Khúc-tĩnh. Quân-hầu lĩnh năm vạn bộ binh, ba
vạn thủy binh, ba vạn kị binh.
Ngô Hán liếc nhìn Cáp Diên:
– Hổ-nha đại tướng-quân An-bình hầu cùng tôi mang đại quân bức Mễ-dịch,
Độ-khẩu, đánh thẳng vào Tượng-quận. Nếu Phùng Vĩnh-Hoa rút đạo binh
Tượng-quận giúp Vương Nguyên về. Chúng ta bắt Vương Nguyên không khó.
Ngược lại y thị để đạo binh Tượng-quận lại giúp Vương Nguyên thì
Tượng-quận bỏ trống. Chúng ta lấy Tượng-quận như thò tay vào túi lấy đồ. Hôm nay là ngày 10 tháng hai. Hẹn đúng ngày 16 tháng ba tất cả đồng
loạt tấn công vào Lĩnh-Nam. Xin Hoài-dương hầu chuẩn bị binh mã. Khi
Hán-trung vương đánh đến đâu, tiếp quản thành trì. Để Vương-gia có thể
rảnh tay tiến binh.
Vương Bá biết Ngô Hán nhận chỉ dụ của Quang-Vũ, xua Công-tôn Thi xung
vào chỗ chết đánh chiếm thành trì. Chiếm rồi, Hán tiếp quản. Rút cục
Công-tôn Thi vẫn tay trắng.
Tan buổi họp, Vương Bá dẫn Chu Tái-Kênh, Trần Năng, Đinh Xuân-Hoa trở về Thành-đô. Vương Bá thở dài:
– Ngô Hán quả có tài dùng binh. Tôi ước tính, dù hai đạo Kinh-châu, Nam-hải không xuất binh. Y cũng chiếm được Tượng-quận.
Trần Năng lắc đầu:
– Ngô Hán cầm quân đã lâu. Kinh nghiệm có thừa. Sau khi bị chúng tôi lừa một trận, y khôn ra. Trước đây, y đã tiến sát Thành-đô. Sơ xuất một
chút, bị chúng tôi lừa, chỉ còn một người, một ngựa về Trường-an chịu
tội. Bây giờ y thiết kế làm như đánh Tượng-quận. Thực ra Tượng-quận là
hư. Bảy châu quận Ích-châu còn lại mới là thực. Y đã thông minh lại tài
trí, nay thấy Thiên tử ân sủng Quân-hầu, nghi ngờ y. Gì mà y không hiểu? Cho nên kế hoạch y dự trù vậy, mà không phải vậy. Cứ suy ngay một việc: Y cầm quân bấy lâu, y biết rõ tình hình Vương Nguyên, Tượng-quận. Thế
mà trong buổi họp, y không trình bày tình hình địch. Rõ ràng y sợ sau
này Quân-hầu tranh công với y. Vậy tốt hơn hết, Quân-hầu phải cử tế tác
dò xét tình hình bên địch, cùng tình hình Ngô Hán một lúc, đến khi cần
thì ra tay.
Vương Bá ngẫm nghĩ một lúc, rồi nói:
– Đúng như lời phu nhân nhận xét. Bây giờ ta phải cử người dọ xét tình
hình Ngô Hán, Vương Nguyên và Tượng-quận. Tình hình Ngô Hán cũng dễ dàng thôi. Hàng ngày tôi cứ phải cử người áp giải lương thực cho y. Vận
lương quan toàn người thân tín của tôi. Họ theo dõi tình hình y, trình
với tôi. Còn dọ thám Vương Nguyên, Tượng-quận. Tôi nhờ ba vị. Không biết ba vị có nhận cho không?
Chu Tái-Kênh nghe Vương Bá đề nghị. Bà nghĩ thầm:
– Ta đang muốn vào Tượng-quận liên lạc với Phùng Vĩnh-Hoa. Ngặt chưa có
cớ. Bây giờ ngươi đề nghị với ta. Thực là gãi đúng chỗ ngứa.
Ba nghĩ ngợi một lúc, rồi nói:
– Chúng tôi nhận chỉ dụ của Thái-hậu vào Thục giúp Hán đánh Lĩnh-Nam.
Thái hậu không nói rõ giúp Ngô Hán hay giúp Quân-hầu. Triều đình đã nghi ngờ Ngô Hán, thì chúng tôi giúp Quân-hầu là phải. Bây giờ chúng tôi lên đường dọ xét tình hình. Tôi chỉ có lệnh bài của Thái-hậu. Vậy Quân-hầu
cấp cho chúng tôi mấy lệnh bài. Chúng tôi là đàn bà, trà trộn vào các
châu, quận của Vương Nguyên thực ít ai ngờ. Chúng tôi sẽ cử người gửi
tin tức về cho Quân-hầu. Từ vùng của Vương Nguyên, chúng tôi sang phía
Tượng-quận cũng dễ thôi. Sau khi dò xét tình hình Tượng-quận, chúng tôi
trở về đây phúc trình với Quân-hầu, trước ngày 16 tháng ba.
Vương Bá mừng rỡ, sai lấy lệnh bài, cùng vàng bạc trao cho Chu Tái-Kênh, Đinh Xuân-Hoa, Trần Năng. Ba người lên đường ngay hôm đó.
Nhờ lệnh bài của Vương Bá, ba người vượt qua các khu vực đóng quân của
Công-tôn Thi dễ dàng. Đại quân Công-tôn Thi đóng ở Hán-nguyên. Từ
Hán-nguyên, ba người đi Việt-tây mất một ngày sức ngựa. Chiều hôm ấy tới Việt-tây vào lúc trời nhá nhem tối. Ba người vào thành. Quân Thục tuy
bại trận, sức cùng, lực kiệt, nhưng vẫn giữ kỷ luật, không quấy nhiễu
dân chúng như quân Hán. Nhìn quân phục, Trần Năng nhận ra quân Lĩnh-Nam
với quân Thục đóng chung. Trên cột cờ giữa thành. Cờ Lĩnh-Nam, cờ Thục
cùng bay phất phới.
Chu Tái-Kênh sợ tai mắt tế tác Ngô Hán biết hành tung. Bà dặn Đinh
Xuân-Hoa kiếm quán ăn. Chờ trời tối, tìm đến trại quân Lĩnh-Nam hỏi chỗ
chú ngụ của Phùng Vĩnh-Hoa.
Ba người vào quán, cô bán hàng lấy gáo múc ba bát nước chè tươi mời
khách. Trần Năng cầm bát vừa định uống, thì một toán năm người lính Thục sập đến. Người ngũ trưởng hỏi Chu Tái-Kênh:
– Các vị từ đâu mới đến. Xin cho xem thẻ bài.
Chu Tái-Kênh cười:
– Chúng tôi từ Thành-đô tới. Còn thẻ bài ư? Chúng tôi không có.
Người ngũ trưởng liếc nhìn đồng bọn:
– Như vậy chúng tôi xin ba vị cho khám hành lý.
Chu Tái-Kênh lắc đầu:
– Khám ư? Không được đâu. Chúng tôi có nhiều mật thư, mật kế. Lại có cả kiếm, cả ám khí nữa.
Người ngũ trưởng vẫy tay cho đồng bọn vây xung quanh:
– Vậy chúng tôi phải mời các vị về dinh tổng trấn.
Chu Tái-Kênh đứng lên:
– Được rồi! Nào chúng ta về dinh tổng trấn ăn cơm chiều, nghỉ đêm nay.
Viên ngũ trưởng ngẩn người ra. Y vẫy tay cho một người lính đi trước.
Còn y với bốn người nữa theo sau. Đi gần đến dinh tổng trấn, thì từ phía trước, một toán người ngựa đi tới. Viên ngũ trưởng ra lệnh cho đồng bọn tránh vào một bên. Chu Tái-Kênh vẫn nghênh ngang đi giữa đường. Viên
ngũ trưởng nói:
– Xin các vị tránh đường.
Chu Tái-Kênh lờ đi như không nghe lời y. Phía trước có hai ngựa đi tới.
Trần Năng nhận ra Vương Nguyên với Phùng Vĩnh-Hoa. Bà gọi lớn:
– Vương sư thúc! Vĩnh-Hoa!
Hai người đã nhận ra bọn Chu Tái-Kênh. Phùng Vĩnh-Hoa nhảy xuống ngựa
chào hỏi. Vương Nguyên đã quen biết với Đinh Xuân-Hoa, Trần Năng. Ông
chưa biết Chu Tái-Kênh. Phùng Vĩnh-Hoa giới thiệu:
– Xin giới thiệu với Vương sư thúc, đây là phu nhân của Khất đại phu.
Vương Nguyên kính cẩn hành lễ:
– Đồ tôn Vương Nguyên, kính cẩn bái kiến phu nhân.
Chu Tái-Kênh biết chồng mình với Thiên-sơn lão tiên là bạn thân. Vì vậy
Vương Nguyên coi chồng mình như thái sư bá. Ông mới xưng đồ tôn. Chu
Tái-Kênh ngang tàng thực. Song bà chỉ ngang tàng với người cứng rắn. Còn người đã biết điều, lễ phép. Bà tỏ ra dịu dàng với người dưới, với
người chịu phép. Bà vẫy tay:
– Vương tiên sinh chẳng nên đa lễ với mụ nhà quê này. Mụ với Đào vương phi và đệ tử Trần Năng tới đây vì Thục.
Bà móc túi lấy bức thư của Sa-Giang, nhờ bà chuyển giao lúc chia tay ở
Lạc-dương, trao cho Vương Nguyên. Bà quay lại nhìn viên ngũ trưởng. Y
đứng bên đường, mở to mắt nhìn bà nói truyện với Vương Nguyên. Y đến
trước bà chắp tay tạ lỗi:
– Tiểu nhân có mắt như mù, không biết núi Thái-sơn. Mong phu nhân đại xá cho tội vô phép.
Vương Nguyên ngơ ngác hỏi truyện gì đã xảy ra. Trần Năng tường thuật sơ lược. Bà nói với viên ngũ trưởng:
– Tôi đã được gặp quân Lĩnh-Nam, quân Hán của Đặng Vũ, Ngô Hán. Mà chưa
thấy lối hành xử khéo léo, lễ độ trong khi làm phận sự như người. Đúng
là quân sĩ của bậc anh hùng có khác.
Bà móc túi lấy một nén vàng trao cho y:
– Thưởng cho ngươi, cùng mấy anh em. Cầm lấy, uống rượu với nhau.
Viên ngũ trưởng không biết địa vị ba phụ nữ mà y định bắt là ai. Chỉ
nhìn thấy cử chỉ chúa tướng Vương Nguyên cùng công-chúa Phùng Vĩnh-Hoa. Y cũng hiểu phần nào. Y kính cẩn nhận thưởng, rồi dẫn đồng đội tuần tiễu.
Về tới dinh, Vương Nguyên cho đánh trống mời tướng sĩ cùng tới họp. Ông
giới thiệu từng người một. Chỉ thiếu có Vương Lộc trấn thủ Mỹ-cơ. Vương
Thọ trấn thủ Việt-tây. Anh hùng Lĩnh-Nam trợ Thục hiện diện đầy đủ.
Chu Tái-Kênh tường trình chi tiết những gì tai nghe, mắt thấy ở Lạc-dương, Thành-đô. Kế hoạch Ngô Hán đánh Lĩnh-Nam.
Vương Nguyên, Phùng Vĩnh-Hoa cũng trầm tư. Trong phòng họp, không khí
nặng nề, gần như một con ruồi bay qua, cử tọa đều nghe tiếng.
Phùng Vĩnh-Hoa ngửng mặt lên trời than:
– Hai mươi vạn quân Ngô Hán, tôi không sợ, mà sợ thầy trò Lê Đạo-Sinh.
Đương nhiên năm đạo quân Ngô đánh xuống Tượng-quận. Tôi phải xử dụng
quân Tượng-quận nghinh chiến. Quang-Vũ chỉ dụ cho Ngô Hán dẫn quân nhìn
Công-tôn Thi đánh Vương sư thúc. Nhìn Lê Đạo-Sinh đánh với chúng tôi.
Sau trận chiến, dù bên nào thắng, y cũng xua quân đánh sang. Giờ này,
không thấy bóng dáng thầy trò Lê ở đâu, làm gì? Mà chỉ thấy Ngô xua quân đánh sang. Tôi sợ thình lình thầy trò Lê xuất hiện.
Trấn-bắc hầu tướng Lê Đông-Giang đứng dậy. Chàng hắng giọng nói:
– Thưa các vị sư bá, sư thúc, sư huynh, sư tỷ. Hoàn cảnh của chúng ta
bây giờ, nước thì nghèo, dân thì ít, mà phải đối phó với đại quân
Trung-nguyên. Vì vậy chúng ta đành chấp nhận hy sinh. Trước đây trong
thơì gian Cửu-chân vương Đô Dương theo Quang-Vũ. Bấy giờ Hán ít quân,
Vương Mãng nhiều quân. Đô Vương-gia tình nguyện hy sinh, dẫn đoàn cảm tử đốt lương thảo địch. Vì vậy Vương Mãng bị bại. Bây giờ chúng ta cũng áp dụng lối đánh đó. Lương thảo của Hán hiện để ở Hán-nguyên, Bồ-lăng.
Quân đoàn sáu Tây-vu chúng tôi tình nguyện hy sinh tính mệnh, đột nhập
hai nơi đó đốt lương thảo. Lương thảo cạn. Ngô Hán không thể tiến binh
được. Mặt khác đã có Chu, Đinh sư bá với Trần sư tỷ ở cạnh Vương Bá,
khích y tiếp tế lương thảo chậm trễ. Như vậy Ngô Hán ắt thất bại. Trong
khi quân Hán thiếu lương dao động. Chúng ta đánh một trận lớn, thì phá
được. Khi Ngô bại, Vương Bá thay thế. Ta không sợ nữa.
Phùng Vĩnh-Hoa thở phào một tiếng:
– Chị cũng đang nghĩ như thế. Ngặt vì không biết có tướng nào dám hy sinh không? Vì vậy chưa dám nói ra.
Phiêu-kị đại tướng-quân Đào Chiêu-Hiển cười:
– Chị Vĩnh-Hoa! Chị bác học, thì bác học thực. Song chị hay đa nghi.
Trong tâm chắc chị nghĩ chỉ mình chị có thể hy sinh mạng sống cho
Lĩnh-Nam, còn những người khác thì chưa chắc. Có đúng thế không?
– Dĩ nhiên chị nghĩ thế.
Đào Chiêu-Hiển quay lại hỏi các tướng:
– Nếu cần chết, cho Lĩnh-Nam sống. Ai dám chịu chết?
Cả phòng đều hô:
– Tôi!
Đào Chiêu-Hiển cười:
– Đấy có phải chị đa nghi không? Chết, đau đớn, ai mà chẳng sợ. Bọn
chúng em sợ đau, sợ chết lắm chứ. Nhưng có một thứ đáng sợ hơn, là cái
sợ mất nước. Cái sợ bị người Hán cai trị. Cho nên chúng ta ai cũng sẵn
sàng chết cho Lĩnh-Nam cả.
Phùng Vĩnh-Hoa gật đầu:
– Chị xin lỗi Chiêu-Hiển. Như vậy được rồi. Chúng ta phá Ngô Hán dễ
dàng. Ta làm quân sư cho Ngô một thời gian. Ngô hiểu ta, ta hiểu Ngô.
Trận đánh này là cuộc đấu trí giữa hai đối thủ biết nhau quá nhiều.
Bà nói với Trần-gia tam-nương:
– Trước khi tiến quân, cần giữ căn bản cho vững. Ngô Hán, Cáp Diên, Lưu
Thương hăm hở đánh xuống Tượng-quận. Một giải bảy thành từ Độ-khẩu đến
Hán-nguyên cần giữ vững. Độ-khẩu đã có Tượng-quận tam-anh. Vậy Trần-gia
Tam-nương mỗi người lĩnh mười dàn Nỏ-thần trấn giữ ba thành Đức-xương,
Tây-xương, Phổ-khách.
Bà quay lại hỏi Vương Nguyên:
– Vương sư thúc! Trước đây sư thúc Công-tôn Khôi cướp vợ, tàn hại cuộc
đời sư thúc. Sư thúc sẵn sàng bỏ thù nhà, cứu Thục. Bây giờ tôi xin sư
thúc một lần nữa bỏ thù nhà cứu Thục. Mong sư thúc nhận lời cho.
Vương Nguyên khẳng khái:
– Bất cứ làm việc gì, cho Thục tồn tại. Tôi đều làm hết.
Phùng Vĩnh-Hoa chỉ lên bản đồ:
– Chúng ta phải đối đầu với năm đạo quân. Một là đạo kỳ binh Vương
Hữu-Bằng. Hai là đạo của Chu Á-Dũng. Ba là đạo Kim-sa-giang của Lưu
Thương. Bốn là đạo Độ-khẩu của Cáp Diên. Năm làø đạo Hán-nguyên của
Công-tôn Thi. Trước đây Ngô Hán biến Công-tôn Thi của Thục thành đạo
quân Hán. Bây giờ chúng ta lại biến quân Vương Bá, Công-tôn Thi của Hán
thành quân Thục.
Vương Nguyên vỗ tay cười:
– Phải như vậy! Chỉ có kế đó mà thôi.
Đào Đô-Thống ngơ ngác hỏi:
– Kế gì vậy?
Phùng Vĩnh-Hoa giảng:
– Công-tôn Thi phản cha, giết anh, hại phái Thiên-sơn tan nát. Cho đến
nay, y chỉ còn được cái danh Hán-trung vương. Đất không còn, quyền thì
không. Y bị Ngô Hán đày đi trước, dùng người Thục đánh người Thục. Y hối thì đã lỡ. Vì vậy tôi mới xin Vương sư thúc bỏ thù nhà. Người bí mật
đến dinh của y thuyết y đem quân phản Hán. Vương sư thúc nhún mình, tôn y làm Hoàng-đế, chắc y sẽ nghe theo. Như vậy ta biến đạo quân của y thành đạo quân phản Hán. Có điều Vương sư thúc đi thuyết khách, lỡ y không
nghe theo trở mặt bắt Vương sư thúc thì hỏng bét. Vi vậy cần có người võ công thực cao, theo đề phòng mới được.
Phùng Vĩnh-Hoa đưa mắt nhìn Chu Tái-Kênh. Chu Tái-Kênh hiểu ý. Bà đứng lên nói:
– Được, ta đi với Vương huynh. Vạn nhất y trở mặt. Ta giết chết y tại
chỗ. Từ đây đến Hán-nguyên không xa. Chúng ta lên đường ngay bây giờ.
Đến đêm đột nhập dinh của y.
Phạm Nga-Nương, trước đây là Thanh-Phong nữ, một trong Lục-phong nữ đánh trận Xuyên-khẩu, Bạch-đế, Trường-an. Khi thành đại nghiệp, Trưng hoàng
đế phong Lục-phong nữ là Thiên-Phong lục công chúa. Thiên-Phong lục công chúa tuân chỉ dụ hoàng đế huấn luyện được hơn năm trăm thiếu nữ biết
chỉ huy Thần-phong. Nàng hiện chỉ huy Thần-phong thuộc quân đoàn sáu
Tây-vu yểm trợ đạo Tượng-quận. Sư của nàng gồm có năm mươi thiếu nữ, chỉ huy hàng mấy triệu ong. Nàng nghe Chu Tái-Kênh khảng khái nhận nhiệm vụ nguy hiểm. Hùng khí bốc dậy, nàng nói:
– Theo em nghĩ, lòng người khó dò. Em xin lĩnh sư Thần-phong cùng với
anh Cao Đà dẫn sư Thần-hổ phục ở Nga-biên. Trường hợp Chu lão bá, Vương
tiên sinh thất bại, cứ chạy đến đó. Chúng em tung Thần-phong, Thần-hổ
cản đường. Trong đêm tối, dù chúng có trăm vạn hùng binh, cũng bó tay.
Vũ Lăng, sư trưởng Thần-ưng tiếp:
– Em gửi theo Thanh-Phong công chúa một đội Thần-ưng. Nếu có gì nguy hiểm. Chúng sẽ bay về cầu cứu.
Phùng Vĩnh-Hoa gật đầu.
Đoàn người ăn cơm chiều xong, lấy ngựa lên đường, xe chở Thần-hổ, Thần-phong cùng lục tục lên đường theo.
Phùng Vĩnh-Hoa ngồi viết biểu tâu về triều đình Lĩnh-Nam và bản dinh Đại tư-mã Đào Kỳ đầy đủ chi tiết kế hoạch dự tính. Bà xin hoàng đế, Đại
tư-mã duyệt xét kế hoạch, tùy nghi tiếp viện. Biểu viết xong, sai
Thần-ưng mang đi liền. Bà đi đi, lại lại trong dinh, lòng đầy lo lắng,
thỉnh thoảng lại thở dài. Đào Tam-Lang thắc mắc:
– Chị Vĩnh-Hoa. Không biết chị có điều gì không an tâm?
Phùng Vĩnh-Hoa gật đầu:
– Tuy chưa đánh nhau. Nhưng ta biết trận này sẽ thắng Ngô Hán. Sau khi
thắng, ít nhất ta cũng tổn thất từ hai tới ba vạn quân. Ta cần có tráng
đinh bổ xung. Tráng đinh phải có thời gian một tới hai năm mới có thể
trở thành binh sĩ thiện chiến. Nếu Ngô Hán lại xua đại binh đánh xuống.
Ta lấy quân đâu ngăn cản y? Huống hồ kể cả quân Tượng-quận, ta chỉ có
mười vạn. Trong khi Ngô Hán tới hai mươi vạn. Hết hai mươi vạn này. Y có hai mươi vạn khác.
Đào Tam-Lang hiểu ra:
– Bấy giờ ta cứ thủ trong thành. Dễ gì y đánh được?
Phùng Vĩnh-Hoa thở dài:
– Dĩ nhiên chỉ có đường đó.
Đêm đã sang canh tư. Phùng Vĩnh-Hoa luôn ngửa mặt lên trời theo dõi tin
tức Thần-ưng báo về. Bà mệt quá, vừa chợp mắt đi một chút, có tiếng
Thần-ưng ré trên không. Bà vội chạy ra coi:
Một Thần-ưng đáp xuống. Sư trưởng Vũ Lăng gỡ thư ở ống tre dưới chân
Thần-ưng trình Phùng Vĩnh-Hoa. Bà mở ra đọc. Vỏn vẹn mấy chữ: Đại sự
hoàn hảo. Bà mừng quá, mặt tươi lên. Một lát có tiếng chân ngựa phi, rồi Chu Tái-Kênh, Vương Nguyên về tới. Vương Nguyên vào trướng. Ông tường
thuật sơ lược:
– Chúng tôi vào đến dinh Công-tôn Thi. Y cùng vợ con đang ôm nhau khóc.
Theo y dự đoán, chắc chắn khi chiếm xong Ích-châu, Quang-Vũ sẽ ra lệnh
giết y. Y hối hận đã hại cha, giết anh, phá sự nghiệp Thục. Giữa lúc đó
chúng tôi đẩy cửa bước vào. Y tưởng tôi tới giết y. Y quì xuống xin chịu tội. Tôi giảng cho y biết rằng tôi tới để tôn y làm hoàng đế Thục, nếu y chịu đem bản bộ quân mã đánh úp Ngô Hán. Tôi thuyết rằng, với quân sĩ
của y, với tài dùng binh của tôi, mà đánh tập hậu Ngô Hán. Rồi cùng một
lúc, Lĩnh-Nam đánh trước mặt. Ngô Hán tất bại. Chúng tôi tiến về chiếm
lại Thành-đô. Biết đâu chẳng tái lập lại nghiệp cũ ? Bằng như ngồi chờ
Quang-Vũ giết. Y bẻ tên thề. Để y yên lòng, tôi quì xuống khấu đầu gọi y là hoàng thượng. Y mừng quá.
Phùng Vĩnh-Hoa thở phào. Bà truyền mời các tướng soái bí mật về họp ở
Độ-khẩu để nhận lệnh. Ba hôm sau các tướng soái Thục, Việt đều tề tựu.
Tuy Phùng Vĩnh-Hoa lĩnh chức Tư-đồ, một trong ba đại thần lớn nhất triều Lĩnh-Nam. Nhưng bà vẫn nể Tượng-quận tam-anh. Bà mời ba vị ngồi ở ghế
ngang hàng. Đầu tiên bà trình bày diễn tiến mỗi việc triều Hán, cùng
quyết tâm diệt Lĩnh-Nam của Quang-Vũ, cho đến kế sách đánh Lĩnh-Nam.
Khác với tổ chức triều Hán. Tướng soái ra lệnh, người dưới chỉ biết tuân theo, và biết nhiệm vụ của mình. Nguyên do Quang-Vũ không tin người
dưới, chỉ cho biết một phần kế hoạch. Nếu tướng sĩ có làm phản cũng
không sợ. Ngược lại triều đình Lĩnh-Nam gồm toàn những người đồng tâm
nhất trí. Hoàng đế Trưng Trắc ban chỉ dụ: Khi họp bàn kế sách đánh giặc. Các tướng tham dự đều được góp ý kiến, được thông qua mọi chi tiết. Để
lỡ ra một tướng tử trận. Bất cứ tướng nào khác cũng có thể thay thế.
Bà hỏi Tượng-quận vương Hàn Bạch:
– Xin Vương gia cho biết, lương thảo tích trữ đủ cho binh sĩ dùng trong bao lâu?
Hàn Bạch đáp:
– Công chúa đừng lo. Tượng-quận không thu thuế của dân, cất thành kho
như Hán, Thục. Các Lạc-hầu, Lạc-tướng có bổn phận thu thuế trong trang
ấp của mình, rồi cất đó. Vì vậy lương thực Tượng-quận không chứa thành
kho. Quân giặc không đột nhập đốt được. Lương thảo hiện đủ dùng trong
vòng một năm cho quân địa phương và hai năm cho đạo Tượng-quận. Nếu có
viện binh từ Quế-lâm tới, chúng tôi đủ chu cấp trong sáu tháng.
Tư mã Hàn Đức trình bày tiếp:
– Lạc vương có ba quân bộ, một quân kị, một quân thủy. Tổng cộng khoảng
năm vạn người. Còn quân của Lạc-công, tráng đinh các trang, bao gồm tất
cả nam nữ tuổi từ mười sáu tới năm mươi.
Phùng Vĩnh-Hoa cầm ấn kiếm để lên án. Bà hỏi:
– Ngô Hán thiết kế, xử dụng tới năm đạo quân. Đạo Ô-giang, Xích-thủy đều hư cả. Hai đạo này mục đích hư trương thanh thế khiến ta dàn quân rộng. Trong khi đó, y dùng đạo quân Công-tôn Thi đánh chiếm Việt-tây, Mỹ-cơ.
Còn y đích thân đánh Độ-khẩu, Mễ-dịch. Sau đó để Vương Bá tiếp nhận
Việt-tây, Mỹ-cơ. Công-tôn Thi đánh Tây-xương. Còn Đức-xương với
Phổ-khách, y không đánh, hai thành này cũng vỡ. Y dự trù với hai mươi
vạn quân Hán, và mười vạn quân Thục, y tiêu diệt năm vạn quân của sư
thúc Vương Nguyên dễ dàng. Sau khi chiếm bảy châu quận, coi như Ích-châu được bình định. Bấy giờ, y mới đánh xuống Tượng-quận. Vậy ta cũng tương kế tựu kế. Ta dàn quân ngăn giặc ở Ô-giang, Xích-thủy, nhưng thực ra,
đánh Cửu-long, Hán-nguyên, đốt lương thảo. Y tất phải rút quân về.
Bà suy nghĩ một lúc, rồi tiếp:
– Trận đánh này cần một số tướng soái cảm tử. Lĩnh nhiệm vụ chỉ có đi mà không có về. Vậy ai chịu chết cho Lĩnh-Nam sống?
Một loạt các tướng soái đều đứng dậy. Bà hài lòng:
– Như vậy các tướng sĩ đều nhất tâm lĩnh nhiệm vụ nguy hiểm. Tuy nhiên
ta cần người có võ công cao, và một sư của quân đoàn Tây-vu. Để công
bằng, ta cho các tướng rút thăm. Ai may mắn, sẽ được lĩnh nhiệm vụ cao
cả này.
Các chúa tướng rút thăm. Phiêu-kị đại tướng-quân Đào Chiêu-Hiển và sư
trưởng Thần-hổ Cao Đà rút được thăm đi. Hai người khẳng khái đứng nhận
nhiệm vụ. Cao Nguyệt-Nương, vợ Cao Đà đứng lên nói:
– Khi tôi với anh Đà kết hôn, có thề rằng: Xin được chết cùng. Nay anh
Đà được lĩnh nhiệm vụ hy sinh. Tôi xin đi theo, để vợ chồng cùng chết.
Phùng Vĩnh-Hoa nói:
– Đạo kỳ binh của Vương Hữu-Bằng và Lý Thái-Hiện gồm mười ba vạn người,
phát xuất từ Phong-đô, đi theo đường sông Ô-giang tiến đánh Bắc
Tượng-quận. Vậy Đào Tam-Lang lĩnh một vạn quân đến đóng đồn ở Đức-sơn.
Cần phải giữ thực bí mật, để Tế-tác giặc không biết. Sư muội Cao
Nguyệt-Nương đem sư Thần long theo giúp Tam-Lang. Rừng Đức-sơn rậm rạp,
thả Thần-long rải rác trong rừng, mục đích cản bước tiến quân của quân
Hán. Đào Đô-Thống lĩnh một vạn quân, trấn đóng tại Vũ-phong. Ta cho mười dàn Nỏ thần theo trợ chiến. Nhớ chỉ giữ đồn cho chắc. Chứ không được
rời khỏi đồn.
Bà trao binh phù cho Đào Chiêu-Hiển, Cao Đà:
– Hai người đem xe chở sư Thần-hổ vào Xích-thủy, dùng thuyền âm thầm đến ngã ba sông Trường-giang, Ô-giang, giả thuyền buôn đậu ở đó. Chờ cho
đạo binh Vương Hữu-Bằng xuất phát được một ngày. Đến đêm bí mật dùng năm trăm tráng sĩ, với sư Thần-hổ đột nhập Bồ-lăng, đốt kho lương thảo của
giặc. Lương thảo Bồ-lăng bị cháy rồi phải rút chạy ngay. Nếu để trễ,
quân Vương Hữu-Bằng trở về, ắt phải tử chiến.
Đinh Xuân-Hoa đứng dậy nói:
– Thuyền buôn loại lớn, mỗi thuyền chỉ có thể chở được ba mươi Thần-hổ,
tất cần tới mười thuyền. Tôi e quân Hán kiểm soát, khám phá ra thì nguy. Tôi hiện có lệnh bài của Mã thái-hậu, binh phù của Vương Bá. Tôi xin đi theo cháu Chiêu-Hiển. Dùng lệnh bài, binh phù của Hán, ta có thể qua
mặt quân kiểm soát trên sông Trường-giang.
Phùng Vĩnh-Hoa ngần ngại:
– Sư bá không nên mạo hiểm. Ngô Hán vốn cẩn thận, thế nào y cũng để
trọng binh canh gác lương thảo. Sư bá mạo hiểm như vậy, e có gì thì...
Đinh Xuân-Hoa cười:
– Cháu Chiêu-Hiển, Cao Đà nhỏ hơn ta một vai, mà còn khẳng khái tuẫn
quốc. Trong khi ta lớn hơn, không lẽ ta không làm được ? Để ta đi với
các cháu.
Phùng Vĩnh-Hoa đành gật đầu. Bà gọi Hàn Đức:
– Tại Vĩnh-thiên hiện ta có một đồn lớn, nhưng chỉ có hai ngàn quân. Vậy sư bá đem thêm một vạn quân tới, đặt chông, cài bẫy, trấn giữ tại đây.
Sư trưởng Thần-ngao Vũ Dương theo giúp sư bá. Này Dương, em chia
Thần-ngao thành từng toán hai mươi lăm con một. Em cho phục rải rác trên đường tiến quân từ Giang-an về Vĩnh-thiên. Bất thần cho Thần-ngao từ
bụi cây nhảy ra tấn công. Khi quân Hán phản ứng, ta lại trốn vào rừng.
Mục đích của ta là cản bước tiến của chúng. Khi chúng tiến tới
Vĩnh-thiên, tất tung quân vây đồn. Chờ Vương Lộc đem quân cướp trại, thì thả Thần-ngao, cùng quân trong đồn ra đánh úp.
Bà chỉ lên bản đồ:
– Hai đạo kỳ binh đã xong. Bây giờ tới đại quân Ngô Hán. Trước hết sư
thúc Vương Nguyên âm thầm đến Hán-nguyên. Đợi Ngô Hán, Cáp Diên, Lưu
Thương xuất phát rồi. Đang đêm sư thúc đem quân Công-tôn Thi đánh chiếm
kho lương thảo Hán-nguyên của Ngô Hán. Sau đó tiến về đánh chiếm
Cửu-long, Nhã-an, My-sơn. Sư thúc cử người trấn giữ thực chắc. Đạo quân
này rất quan trọng, tôi cử tướng chỉ huy quân đoàn sáu Tây-vu là
Trấn-bắc hầu tướng Lê Đông-Giang đem sư Thần-hầu, Thần-báo, Thần-ưng
theo trợ chiến. Tôi sẽ theo đạo này.
Bà đứng lên nói với Hàn Bạch:
– Sư bá đem ba vạn quân, đóng ở Hạc-túc-sơn. Mục đích cản quân của Lưu
Thương. Chỉ cần cầm cự một vài ngày. Khi Vương sư thúc đánh cướp lương
thảo, chiếm Cửu-long. Tất y bỏ chạy. Bấy giờ sư bá tung sư Thần-tượng
đuổi đánh, tất thắng.
Sư trưởng Thần-tượng Nghiêm Đôn hỏi:
– Tôi phải đuổi giặc đến cùng, hay chỉ đuổi tới biên giới Thục thôi?
Phùng Vĩnh-Hoa chỉ Hàn Bạch:
– Tượng-quận vương sẽ quyết định khi lâm chiến.
Bà gọi Vương Hồng, Chu Thanh:
– Sư bá Vương Hồng đóng giữ Hòa-bình. Sư bá Chu Thanh đóng quân giữ
Độ-khẩu. Xin Thanh-Phong công chúa Phạm Nguyệt-Nương đem sư Thần-phong
chia làm hai, một nửa trợ chiến cho Hòa-bình, một nửa trợ chiến cho
Độ-khẩu. Ta phải nhờ công chúa trấn giữ hai nơi này, vì Độ-khẩu là hiểm
địa. Nếu để mất, chúng ta không còn đường về.
Bà nói với Chu Tái-Kênh, Trần Năng:
– Hai vị trở về, đem hết tình hình quân Ngô Hán, Lĩnh-Nam nói cho Vương
Bá biết. Hai vị xin lĩnh hai đạo quân trấn đóng ở Mi-sơn, Đông-sơn. Khi
quân của Vương Nguyên với tôi đến, thì mở cửa cho vào.
Phùng Vĩnh-Hoa hỏi lại các tướng:
– Có ai thắc mắc gì không?
Trần Năng hỏi:
– Quân của Vương Bá là quân Hán. Sợ khi lâm trận, chúng không chịu giao chiến với quân Ngô Hán. Trường hợp đó phải làm thế nào?
Phùng Vĩnh-Hoa ghé tai Trần Năng, Chu Tái-Kênh dặn nhỏ mấy câu. Hai người gật đầu cười, lấy ngựa lên đường.
Hôm sau Phùng Vĩnh-Hoa cùng Vương Nguyên, Chu Tái-Kênh, Trần Năng lên
đường về Việt-tây. Tới Việt-tây, Phùng Vĩnh-Hoa nói với Chu Tái-Kênh:
– Lão bá cùng Trần sư tỷ phải về Thành-đô ngay. Nhớ theo dõi tin tức
Vương Bá, Ngô Hán, dùng Thần-ưng liên lạc với tôi hàng ngày.
Trên đường về Thành-đô. Trần Năng bàn với Chu Tái-Kênh:
– Bây giờ trở về, thế nào Vương Bá cũng thắc mắc vụ Đào vương phi vắng
mặt. Đệ tử sẽ dối rằng: Mã thái-hậu chỉ dụ sai chúng ta mua một số cọp
mang về Lạc-dương huấn luyện thành binh đội như Lĩnh-Nam. Đào vương phi
đã mua được ba trăm con cọp, đang tải theo Trường-giang về Kinh-châu
giao cho Mã Viện.
Hai người tới Thành-đô vào buổi trưa, vội vào ra mắt Vương Bá. Vương Bá
tay cầm một tờ văn thơ đưa ra trước mặt Chu Tái-Kênh hỏi:
– Tôi nhận được ngựa lưu tinh báo rằng, có một phụ nữ, mang lệnh bài của Mã thái-hậu, chở ba trăm con cọp theo sông Trường-giang đến Giang-tân,
bị thủy quân giữ lại. Tôi đang phân vân, không biết có phải các vị
không?
Chu Tái-Kênh liếc nhìn Trần Năng, gật đầu:
– Trước khi vào Thục, Mã thái-hậu chỉ dụ rằng chúng tôi cần mua thực
nhiều cọp, đóng cũi, gửi về Kinh-châu giao cho Phục-ba tướng quân Mã
Viện. Viện sẽ huấn luyện thành binh đội như các đạo quân Lĩnh-Nam. Chúng tôi quên không nói cho Quân-hầu biết. Đinh Xuân-Hoa hiện đi theo đoàn
thuyền chở cọp. Xin Quân-hầu khẩn ra lệnh cho thủy quân đừng cản trở.
Vương Bá gật đầu:
– Thì ra thế. Tôi sẽ truyền lệnh đến Giang-tân ngay. À các vị đi dò thám tin tức, được những gì?
Chu Tái-Kênh trình bày tất cả tin tức của Ngô Hán, do Phùng Vĩnh-Hoa sưu tầm được thuyết trình cho Vương Bá. Còn tin tức của Lĩnh-Nam, bà trình
bày những gì không cần bảo mật như tình hình quân số, dân chúng, lương
thảo.
Vương Bá lo nghĩ:
– Ngô Hán yêu cầu tôi cử người đem quân theo Công-tôn Thi. Đợi Thi chiếm được thành của Vương Nguyên, thì tiếp quản. Tôi muốn nhờ hai vị, mỗi
người lĩnh một vạn quân bộ, năm nghìn quân kị, theo Công-tôn Thi. Khi
Thi chiếm được thành nào, thì các vị trấn giữ lấy. Tôi được mật chỉ của
hoàng thượng rằng, cần theo dõi Thi cẩn thận. Hễ thấy y có ý gì khác,
lập tức giết chết ngay. Có một điều tôi dặn hai vị, luật nhà Hán không
cho phụ nữ cầm quân. Vì vậy trên thực tế tôi sai Phạm lục đệ, đem theo
hai tướng, chỉ huy hai đạo quân, để che mắt. Còn thực sự, hai vị mới là
người chỉ huy.
Sáng hôm sau Phạm An thống lĩnh binh mã, cùng Chu Tái-Kênh, Trần Năng
lên đường. Đến ngoài thành Hán-nguyên, thì cho đóng quân. Phạm An dẫn
Chu Tái-Kênh, Trần Năng đến dinh Công-tôn Thi. Công-tôn Thi cho mời vào
trướng. Phạm An chỉ mới được Vương Bá cử làm đại tướng quân, chưa có
chức tước gì. Trong khi Công-tôn Thi được phong tước Hán-trung vương. An cúi đầu hành lễ. Công-tôn Thi được Vương Nguyên thông báo tin tức
trước. Vì vậy y thấy Chu Tái-Kênh, Trần Năng theo Phạm An, y không đến
nỗi ngạc nhiên.
Công-tôn Thi nói với Phạm An:
– Phạm tướng quân tạm đồn trú ở Mi-sơn, Đông-sơn, sẵn sàng tiếp ứng cho
chúng tôi. Đợi ngày 16 tháng ba, là ngày toàn thể tướng sĩ dẫn các đạo
quân Ô-giang, Xích-thủy, Kim-sa-giang đồng tấn công. Tiểu vương cùng
tiến đánh Việt-tây, Cam-lạc. Thành Hán-nguyên xin giao cho tướng quân.
Theo lệnh, Ngô Đại tư-mã trực tiếp đánh Độ-khẩu. Khi các thành Độ-khẩu,
Đức-xương, Việt-tây hạ được rồi, tự nhiên các thành Mễ-dịch, Phổ-khách,
Mỹ-cơ phải đầu hàng.
Phạm An vâng dạ trở ra. Chu Tái-Kênh nói với Phạm An:
– Mi-thành để cho đồ nhi Trần Năng trấn đóng. Tôi trấn đóng ở Đông-sơn.
Còn tướng quân, đóng ở Nga-biên, sát nách Công-tôn Thi. Như vậy mới bảo
toàn được an ninh cho Thành-đô.
Phạm An chỉ có võ công cao tuổi y trẻ. Y chưa từng cầm quân bao giờ,
trong khi Chu Tái-Kênh, Trần Năng đầy kinh nghiệm,hai người bàn sao, y
nghe vậy. Y trao quân cho hai bà. Còn y đến thành Nga-biên trấn thủ.
Hàng ngày Chu Tái-Kênh, Trần Năng nhận được đầy đủ diễn tiến các đạo
quân. Cho đến sáng 15 tháng ba, có binh phù của Ngô Hán gửi cho Công-tôn Thi truyền lệnh: Tất cả các nơi đồng tấn công vào giờ thìn ngày 16
tháng ba.
Hai bà âm thầm lẻn về bản dinh của Công-tôn Thi. Công-tôn Thi, Vương Nguyên, Vương Thọ đều có mặt.
Công-tôn Thi thăng trướng. Y nói:
– Hôm nay tôi loan báo với các tướng một việc tối quan trọng. Trước kia
tôi nghĩ rằng Thục nhỏ, Hán lớn. Mình chịu đầu Hán, nhận sắc phong, hầu
tránh chiến tranh. Không ngờ Quang-Vũ trở mặt, tàn sát sĩ dân Thục,
chiếm hết giang sơn của chúng ta. Bây giờ lại y xua chúng ta đi trước
chém giết lẫn nhau. Vì vậy tôi đã liên lạc với lục sư thúc Vương Nguyên. Đêm nay chúng ta đánh úp Ngô Hán. Đánh, nếu thắng, chúng ta lập lại
nước Thục. Bại, cũng chết cho hả dạ. Huống hồ chúng ta còn được Lĩnh-Nam trợ giúp.
Các tướng Thục cùng một tâm trạng như Công-tôn Thi. Họ đứng dậy tuốt
gươm, thề quyết sống chết một trận. Bấy giờ Công-tôn Thi mới truyền mời
Vương Nguyên, Phùng Vĩnh-Hoa, Chu Tái-Kênh, Trần Năng xuất hiện.
Công-tôn Thi bưng ấn kiếm trao cho Phùng Vĩnh-Hoa:
– Xin Công chúa Nguyệt-Đức trổ thần uy cho.
Phùng Vĩnh-Hoa khảng khái nhận ấn kiếm. Bà nói:
– Đúng giờ thìn sáng mai, các đạo binh Hán đồng khởi sự tấn công. Chúng
ta lợi dụng cũng giờ đó, khởi binh, chiếm lại các thành. Đầu tiên chiếm
Cửu-long, tuyệt đường về của Ngô Hán. Đồng thời chiếm Hán-nguyên,
Nga-biên, Mi-sơn, Đông-sơn. Sau đó tập trung quân, dàn ra đợi tấn công
quân Ngô Hán. Chúng ta đánh một trận, tất y bại. Bấy giờ, chúng ta tiến
về Thành-đô dễ dàng.
Các tướng vỗ tay hoan hô nhiệt liệt. Bà tiếp:
– Giờ dần ngày mai, Chu lão bá, Trần sư tỷ mang quân từ Mi-sơn, Đông-sơn về Hán-nguyên. Dùng binh phù Vương Bá nói rằng vâng lệnh Vương Bá chở
lương thảo đến Hán-nguyên. Trên xe chở đầy cỏ khô tẩm dầu. Khi xe vào
thành rồi, lập tức đốt kho lương thảo. Trong khi đó hai tướng Điền
Nhung, Lữ Vi, giả quân Chu lão bá, Trần sư tỷ trở về, đánh úp Mi-sơn,
Đông-sơn.
Bà nói với Công-tôn Thi:
– Xin Vương gia đích thân chỉ huy đánh Hán-nguyên, đem theo các tướng
Nhiệm-Đăng, Ngụy Đảng, Sử Hùng. Tôi tăng viện Hắc-hầu tướng với sư
Thần-hầu. Chờ khi trong thành Hán-nguyên khói bốc lên, lập tức xua quân
vào tiếp ứng. Sau khi chiếm Hán-nguyên, xin đến Cửu-long đón đánh Ngô
Hán với chúng tôi.
Bà nói với Vương Nguyên:
– Sư thúc cùng với Vương Thọ, và tôi đánh Cửu-long. Chúng ta còn sư Thần-báo, Thần-ưng trợ chiến.
Canh ba, Phùng Vĩnh-Hoa, Vương Nguyên âm thầm dẫn một đoàn xe một trăm
năm mươi chiếc, chở ba trăm Thần-báo tiến về Cửu-long. Tới nơi, trời bắt đầu sang canh năm. Bốn cửa thành Cửu-long đóng kín. Quân sĩ canh phòng
nghiêm mật. Bà bảo Sư trưởng Thần-ưng:
– Sư đệ ra tay đi thôi.
Vũ Lăng huýt sáo, năm Thần-ưng to lớn đáp xuống. Chàng phất tay ra lệnh. Năm Thần-ưng tha đầu năm sợi dây bay lên, quấn vào trụ thành. Chàng cầm đầu dây giật mạnh, thấy chắc. Nói:
– Sư tỷ! Chúng ta lên thôi.
Vương Nguyên có võ công cực cao. Ông bám dây, thoăn thoắt mấy cái, ông
với Vương Thọ đã lên tới mặt thành. Ông vẫy tay cho Phùng Vĩnh-Hoa, và
các tướng. Năm người bám dây cùng leo lên như vượn.
Vương Nguyên đang leo, lão cảm thấy nghẹt thở, như bị ai đánh trộm phía
sau. Ông vội vung tay về sau. Tay ông chạm phải tay một người khác đến
bộp một cái. Cánh tay ông đau đớn muốn gãy ra. Ông giật mạnh tay, người
vọt lên mặt thành. Người kia lại phóng chưởng chụp xuống đầu ông. Ông
vung chưởng đỡ. Binh một tiếng. Ông suýt rơi xuống mặt thành.
Vương Thọ vội rút kiếm tấn công người kia cứu cha. Người kia không coi
Vương Thọ vào đâu. Y rút kiếm, đỡ kiếm của Thọ. Hai người chiết chiêu
với nhau. Phùng Vĩnh-Hoa nhận ra người chiết chiêu với Vương Thọ là
Đức-Hiệp.
Phùng Vĩnh-Hoa thấy Đức-Hiệp, bà an tâm phần nào, vì có lẽ thầy trò Lê Đạo-Sinh đang hiện diện đâu đó.
Vương Nguyên rút kiếm, cùng Phùng Vĩnh-Hoa giết quân canh cửa, mở tung ra, thả cầu treo xuống.
Cao Chiêu-Hựu hú ba tiếng, đàn Thần-báo rống lên, phóng qua cửa thành.
Quân Thục theo đoàn Thần-báo tiến vào. Bấy giờ quân trong thành mới giật mình tỉnh giấc.
Phùng Vĩnh-Hoa đứng đốc chiến cho quân vào thành. Còn Vương Nguyên cùng các tướng đánh thẳng vào trung ương.
Trời sáng tỏ, quân Thục chiếm được trọn vẹn thành.
Nguyên Ngô Hán nghĩ rằng: Phía sau y là Thành-đô, có Vương Bá trấn thủ,
phía trái, phải đều thuộc về Hán. Nên y chỉ có năm vạn quân trấn đóng,
với một tướng trẻ. Y tuyệt không ngờ Công-tôn Thi lại phản bội mình. Vì
vậy y không để tướng tài lại trấn thủ. Khi bàn định kế hoạch với Lê
Đạo-Sinh. Lê kinh nghiệm về loại hàng thần lơ láo hơn. Y yêu cầu Ngô Hán đề phòng Công-tôn Thi. Ngô nể lời Lê, sai Đức-Hiệp ở lại giúp sức tướng trấn thủ thành Cửu-long. Vì vậy Cửu-long mới bị đánh úp.
Vương Nguyên hỏi Vương Thọ:
– Tên Đức-Hiệp hôm qua đâu rồi?
Vương Thọ đáp:
– Thưa cha, lúc thành bị chiếm. Y bỏ chạy mất. Con mải tiếp thu thành, không biết y trốn đâu.
Trời sáng hẳn, Phùng Vĩnh-Hoa cùng Vương Nguyên ngồi chờ tin tức. Đến giờ Ngọ. Thần ưng báo về: Chiếm được Mi-sơn, Đông-sơn.
Hai người đứng trên cao nhìn về Hán-nguyên. Khói lửa bốc lên mịt mờ. Một lát Thần-ưng bay xuống sân. Vũ Lăng cầm thư vào trình Phùng Vĩnh-Hoa.
Bà mở ra đọc. Miệng mỉm cười:
– Công-tôn Thi chiếm được Hán-nguyên rồi. Đang chỉnh bị quân mã tới đây với chúng ta.
Lát sau Thần-ưng đem thư tới. Vũ Lăng reo lên:
– Thư sư bá Chu Thanh từ Độ-khẩu.
Phùng Vĩnh-Hoa mở ra coi:
Ngô Hán lập mưu đánh Độ-khẩu, Hòa-bình, vượt Kim-sa-giang đánh
Tượng-quận. Sự thực y đem quân đánh Tây-xương, Đức-xương. Hai thành này
lâm nguy. Xin định liệu
Bà hoảng kinh:
– Ngô Hán quả thực đại tướng tài. Mưu kế của y biến hóa khôn lường. Rõ
ràng y đem Ô-giang, Xích-thủy, Tượng-quận làm hư. Hán-nguyên, Độ-khẩu,
Hòa-bình là thực. Thình lình y biến Độ-khẩu, Hòa-bình thành hư, chuyển
Đức-xương, Tây-xương làm thực.
Bà nói với Vương Nguyên:
– Lòng người khó dò. Xin sư thúc khẩn về Hán-nguyên giả trợ Công-tôn Thi trấn thủ. Nhưng sư thúc coi chừng y. Sư thúc cử các tướng Sử Hùng, Ngụy Đảng, đem Hắc-hầu tướng về giữ vững Việt-tây, cho Chu Tái-Kênh, Trần
Năng đến đây trợ chiến với tôi. Tôi liệu chừng dù Ngô Hán đánh được hai
thành, y cũng phải trở về chiếm lại Cửu-long. Nếu không, y không còn
lương thảo nữa.
Đến trưa Chu Tái-Kênh, Trần Năng về tới. Chu Tái-Kênh suýt xoa:
– Ngô Hán thực cao trí. Chúng ta tính như vậy, mà y đổi kế hoạch giờ
chót. Thành ra chúng ta ở vào thế bị động. Bây giờ, tại đây chúng ta có
bốn vạn quân. Nếu y đem cả mười vạn quân trở về. Chúng ta nghênh chiến
bằng cách nào?
Phùng Vĩnh-Hoa mỉm cười:
– Không khó! Tôi khắc có biện pháp đối phó. Ngô Hán đã bị tuyệt lương
thảo. Dù y có tài như Trung-tín hầu Vũ Bảo-Trung, Phương-chính hầu Trần
Tự-Minh đất Âu-Lạc hay Tôn Tử, Hàn Tín bên Trung-nguyên cũng bó tay. Tôi gửi thư cho sư bá Hàn Bạch, để người đem sư Thần-tượng vượt
Kim-sa-giang đuổi theo. Sư bá Chu Thanh đem sư Thần-phong giải vây
Đức-xương, Tây-xương. Ngô Hán tất rút quân về Cửu-long. Ta chỉ cần cố
thủ trong ba ngày, quân hết lương, chúng tự tan rã.
Đến đó quân báo:
– Có sứ giả của Lạc vương Hàn Bạch xin vào yết kiến.
Phùng Vĩnh-Hoa truyền mời vào. Sứ giả hành lễ:
– Thần, Hàn Thanh, thế tử của Lạc-vương Tượng-quận, bái kiến công chúa.
Phùng Vĩnh-Hoa truyền mời Hàn-Thanh ngồi, hỏi:
– Sư bá truyền sư đệ đến đây có việc gì?
Hàn-Thanh trình thư lên Phùng Vĩnh-Hoa, rồi tường trình chiến cuộc Độ-khẩu, Kim-sa-giang.
...
Đúng giờ thìn ngày 16, quân Ngô Hán thay vì vượt Kim-sa-giang đánh vào
Tượng-quận và Độ-khẩu. Ngô cho Lưu Thương kéo đến đánh Đức-xương. Cáp
Diên kéo đến đánh vây Tây-xương. Khi hai đạo quân vừa vượt Kim-sa-giang, thì toán Thần-ưng tuần phòng đã báo cho Trần Đạm-Nương biết. Trần
Đạm-Nương kinh hoảng. Vì tại thành Tây-xương bà chỉ có năm ngàn quân.
Trong khi Lưu Thương có đến năm vạn. Bà vội sai Thần-ưng báo cho Trần
Hồng-Nương biết mà đề phòng. Một mặt bà truyền sứ giả tới Độ-khẩu cầu
cứu với Tư-đồ Tượng-quận Vương Hồng.
Bà đốc xuất quân sĩ, dân chúng lên mặt thành phòng bị. Lát sau quân Hán
hàng hàng lớp lớp kéo tới. Lưu Thương dẫn đầu. Y những tưởng với kế
hoạch dương đông, kích tây, hư hư, thực thực của Ngô Hán, y sẽ đánh úp
được thành. Không ngờ, tới nơi, bốn cửa đều đóng kín. Trên mặt thành cờ
xí, gươm đao nghiêm chỉnh. Y gò ngựa lại, truyền cho các tướng vây
thành. Y ngửa mặt nhìn lên dịch lầu, Trần Đạm-Nương lưng đeo bảo kiếm,
vẫy y cười:
– Xương-thành hầu, ngươi vẫn mạnh giỏi a? Từ hồi Dương-bình quan cách biệt. Nay mới được tái kiến Quân-hầu.
Lưu Thương gò cương ngựa hỏi:
– Phải Trần-gia tam-nương đấy chăng? Tại sao các vị đi trợ giúp bọn giặc Thục, chống lại Thiên tử?
Trần Đạm-Nương nghĩ thầm:
– Trưng hoàng đế đã ban chỉ dụ: Tướng cầm quân mà nổi giận, nóng nảy,
thì thần minh bị che lấp. Quyết định mất sáng suốt. Ta phải chọc cho tên này giận mới được.
Nghĩ vậy bà nói:
– Tướng quân, thân làm đại tướng Hán. Tước phong tới hầu, mà sao hồ đồ làm vậy?
Lưu Thương nổi giận:
– Cô nương bảo ta hồ đồ. Vậy ta hồ đồ ở chỗ nào?
Trần Đạm-Nương đáp:
– Quân-hầu bảo tôi giúp Thục chống thiên tử? Điều đó chẳng hồ đồ ư?
Chính tôi tuân chỉ thiên tử, trấn thủ thành Đức-xương giúp Thục mà.
Lưu Thương từng chiến đấu chung với Trần-gia tam-nương. Y biết ba chị em họ Trần, võ công tuy không cao, song điều binh khiển tướng, văn võ toàn tài. Khó mà đấu khẩu với họ. Y hỏi:
– Cô nương sao nói láo làm vậy? Trưng hoàng-đế không phải thiên tử.
Đạm-Nương cười:
– Tôi hỏi Quân-hầu điều này nhé: Thế nào là thiên tử? Thiên tử tức con
trời. Kinh thư của quí quốc nói: Trời sinh trăm dân, sai con xuống làm
vua để cai trị. Lại nói Ý dân là ý trời. Như hoàng đế Lĩnh-Nam ta, phất
cờ quét giặc Hán khỏi đất nước. Trăm họ đều vui mừng. Đó mới chính là
thiên tử. Còn Quang-Vũ, mượn tiếng ông cha, đánh Vương Mãng. Song dân
chúng oán thán. Ngay dân Thục, quân Hán đến đâu, dân chúng khóc lóc đến
đó. Thế thì Quang-Vũ chẳng phải thiên tử.
Lưu Thương cứng họng. Y truyền lênh đánh thành. Quân sĩ reo hò, bắc
thang leo lên. Trần Đạm-Nương vẫn thản nhiên đứng nhìn. Bà cầm quạt phe
phẩy. Miệng cười. Lưu Thương nghi ngờ:
– Tại sao y thị không phản ứng? Lại đứng cười?
Song ỷ vào quân số đông. Y vẫn cho đánh thành. Quân sĩ leo lên nửa
chừng. Một tiếng bùng. Chiếc pháo thăng thiên giữa thành bay lên trời,
nổ đến đoàng một tiếng, tỏa ra bốn phía. Lập tức mỗi trạm canh trên
thành, chĩa ra mấy chiếc ống tre to bằng bắp chân. Trong ống tre, hằng
chục mũi tên bắn tỏa xuống dọc theo tường thành. Chỉ loạt đầu tiên. Bao
nhiêu quân Hán đang leo lên thành, bị trúng tên, ngã lộn xuống bờ hào.
Một tiếng pháo nữa nổi lên. Các dàn nỏ lại hướng xuống đội hình dưới
thành, nã tên. Tên bay xuống như mưa. Quân sĩ ngã lăn xuống ngựa. Người
kêu, ngựa hí vang dội.
Bỗng có tiếng kêu như cú rúc đêm khuya. Những mũi tên Nỏ-thần to bằng cổ tay bay rất xa, rơi xuống đội hình quân Hán. Quân Hán kinh sợ, lui trở
lại. Nhưng Nỏ thần vẫn bắn theo rào rào.
Lưu Thương truyền quân sĩ án dinh, hạ trại, đóng ngoài tầm Thần-nỏ. Vây
kín thành. Giờ ngọ, Ngô Hán cùng đại quân tới. Lưu Thương tường trình
tình hình:
– Tôi đem quân đến nơi, bên Lĩnh-Nam dường như biết trước. Chuẩn bị ứng
chiến chu đáo. Các đội Thần-nỏ đặt trên thành bắn xuống như mưa. Quân sĩ bị tử thương nhiều quá. Tôi phải án binh. Chờ Đại tư-mã.
Ngô Hán thở dài:
– Trước đây, Lĩnh-Nam trợ Hán đánh Thục. Ta đã biết lợi hại của Thần-nỏ. Trong trận Trường-an, quân chúng ta đông gấp đôi quân Việt-Thục, mà bị
bại cũng vì Thần nỏ. Ta đã chuẩn bị kế hoạch đối phó.
Ngô Hán truyền quân sĩ lấy rơm, làm một lá chắn dài rộng hơn trượng. Lá
chắn đó do năm tên quân núp phía sau, ẩn thân tiến lên. Quân Việt trên
thành dùng Thần-nỏ bắn xuống, tên bị ghim vào lá chắn. Quân Hán reo hò,
đội lá chắn, bắc thang leo lên mặt thành.
Quân Việt dùng tên tẩm dầu, châm lửa đốt bắn vào lá chắn. Lá chắn bằng
rơm, bốc cháy. Quân Hán vội bỏ lá chắn, lại bị Thần-nỏ bắn xuống. Trận
chiến kéo dài cho đến xế chiều. Quân Hán vẫn chưa vào được thành.